Heavy asphalt (asphalt cement) - nhựa đường đặc/nhựa đặc (asphalt/bitumen đặc), được phân mác theo độ kim lún ở nhiệt độ 25oC (ASTM D946 hoặc AASHTO M20).
Ví dụ: nhựa 60/70 là loại nhựa đặc có độ kim lún là 60 đến 70 (0,1mm) ở nhiệt độ 25oC.
Cutback asphalt - Nhựa đường lỏng/nhựa lỏng (asphalt/bitumen pha loãng) được phân mác theo độ nhớt của nhựa ở nhiệt độ 60oC (ASTM 2027 hoặc AASHTO M82).
Ví dụ: nhựa MC-30 là loại nhựa lỏng có độ nhớt (mm2/giây) ở nhiệt độ 60oC là Min =30, Max = 70; nhựa MC-70 có độ nhớt Min =70, Max = 140.
Ở Việt Nam ta do khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm, mưa nhiều nên chỉ dùng nhựa đặc khi thi công các loại mặt đường BTN, đá dăm TNN, láng nhựa...
Curing - đóng rắn/đông đặc.
Rapid - nhanh.
Medium - vừa/trung bình.
Slow - Chậm.
Nhựa đường lỏng còn được phân loại theo tốc độ đông đặc (curing).
- Rapid Curing Cutback - RC: nhựa lỏng đông đặc nhanh.
- Medium Curing Cutback - MC: nhựa lỏng đông đặc vừa.
- Slow Curing Cutback - SC: nhựa lỏng đông đặc chậm.
Nhựa lỏng có thể được sản xuất ngay khi chế tạo, cũng có thể sử dụng các loại nhựa đường đặc pha loãng với dầu hỏa để tạo ra nhựa đường lỏng.
Để thuận tiện khi tưới trộn, nhựa đường đặc còn có thể được chế tạo thành nhũ tương nhựa đường.
Emulsified Asphalt - nhũ tương nhựa đường.
Anionic Emulsified Asphalt - nhũ tương gốc kiềm (các hạt nhựa trong nhũ tương được các chất nhũ hóa bao bọc làm chúng có cũng điện tích âm).
Cationic Emulsified Asphalt - nhũ tương gốc a-xít (các hạt nhựa trong nhũ tương được các chất nhũ hóa bao bọc làm chúng có cũng điện tích dương).
Hiện ở Việt Nam ta (cũng như trên thế giới) hầu như chỉ còn dùng loại nhũ tương gốc A xít do loại này có khả năng dính bám với cả các loại cốt liệu gốc a-xít hoặc ba-zơ.
Phân loại nhũ tương ở Việt Nam hiện nay tuân theo Tiêu chuẩn 22TCN 354:2006 (ASTM D977 và D2397 hoặc AASHTO M140 và M208). Theo tài liệu này hiện ở Việt Nam phân loại nhũ tương chủ yếu dựa vào tốc độ phân tích/tách.
Tại sao phải phiền hà gia công nhựa đường đặc thành nhựa đường lỏng hoặc nhũ tương nhựa?
Để có thể dễ tưới, trộn - dễ dàng tạo thành màng mỏng trên bề mặt tưới (thấm hoặc dính bám) hay bao bọc các hạt cốt liệu (nguội) ở trạng thái ấm hoặc nguội (bằng nhiệt độ không khí).